Tháng 6 cách đây 45 năm, mình là lính mới của Sư 338.
NHỮNG NGÀY ĐẦU NHẬP NGŨ
Cuối tháng tư năm 1972 Mỹ ném bom trở lại Miền Bắc.Lớp K16 Toán Cơ- Khoa Toán -Trường Đại học Tổng hợp sơ tán về
làng Quảng Minh Thanh Oai Hà Tây. Và cũng từ đây mình đã khám sức khỏe và nhận
quyết định nhập ngũ. Quyết định nhập ngũ lần 1 ghi ngày 25-5-1972, tuy nhiên,
vì lí do gì đó đơn vị nhận tân binh không đến, nên bọn mình lại có quyết định
nhập ngũ lần 2, ghi ngày 29-5-1972. Đây là hai QĐ đó:
Vậy là ngày nhập ngũ chính thức của mình được tính là
ngày 29-5-1972, và đơn vị nhận quân là Sư 338. Khi mới nhập ngũ bọn mình ở ngay
trong ngôi đình của làng Cự Đà, không xa làng Quảng Minh nơi lớp mình sơ tán.
Trong đám sinh viên trường ĐHTH nhập ngũ đợt đó có một số
được tuyển thẳng sang Phòng không – Không quân, các bạn đó được ô tô tải về tận
Cự Đà đón về Quân chủng và ngay sau đó được đi sang Liên Xô học tên lửa SAM 3.
Số còn lại, sau khi lĩnh quân trang và ổn định ở Cự Đà khoảng non 1 tuần thì bắt đầu
hành quân vào Thanh Hóa, nơi Sư 338 tổ chức huấn luyện tân binh.
Vì chỗ đóng quân ở Cự Đà rất gần với làng Quảng Minh nơi
lớp mình sơ tán nên khi biết tin bọn mình chuẩn bị hành quân, bạn mình là Nguyễn Ngọc
Chi đã mau mắn về tận Hà nội đèo Bà cụ nhà mình vào tiễn mình lên đường. Hình ảnh Bà Cụ nhà mình lẽo đẽo theo sau hàng quân để tiễn con ra trận in sâu trong trí nhớ của mình. Đất nước này, bao nhiêu năm chiến tranh, bao nhiêu bà mẹ VN đã phải âm thầm khóc tiễn con lên đường như vậy? Tuy nhiên, không hiểu vì lí do gì mà bọn
mình đã hành quân ra đến ga Văn Điển rồi lại nhận lệnh quay trở lại Cự Đà. Uổng
công Bà cụ nhà mình đi tiễn, mà vậy cũng hay, đỡ đau lòng. Ngày hôm sau thì bọn mình mới thực sự hành quân vào Thanh hóa.
Vậy là chuyện đi lính của mình, từ việc nhận Quyết định,
đến việc hành quân vào nơi huấn luyện đều phải trải qua 2 lần.
Từ Cự Đà ra ga Văn điển lính ta phải cuốc bộ. Nhưng từ ga
Văn điển lính ta được ngồi tàu hỏa xuôi nam. Nhưng chỉ được vài ga thì đường
tàu bị cắt, lí do Mỹ ném bom cầu Giẽ. Từ ga Phú Xuyên, lính ta lại phải xuống đi bộ. Khi qua cầu Giẽ, anh Trung đội trưởng đứng trên cầu hối thúc lính ta nhanh chân, vì sợ máy bay địch quay lại. Mặt cầu hư hại,bùn đất còn đầy trên đường. Got chân lính đã nhấc lên, nhưng đôi dép thì vẫn bị đất dính chặt xuống mặt đường, lính ta có muốn đi nhanh cũng không được!. Như muốn thử thách, như muốn trêu ngươi! Tuy vậy, khó khăn lại ló cho lính ta một điều: Dép cao su tin cậy được. Và đôi dép quai râu đó không chỉ nâng chân lính ta trong chuyến hành quân vào Thanh Hóa, mà nó còn theo chân người lính trong suốt thời gian tại ngũ của họ.
Ngày nghỉ đêm đi, cứ 4 giờ chiều là ra khỏi làng, nhận lời
chúc của các mẹ các chị: “các con đi chân cứng đá mềm”, những tấm lòng sẻ chia, động viên
của những người dân trên đường lính ta hành quân. Đi bộ chẳng là cái gì với
mình, vì mình là dân đá bóng, ưa vận động. Nhưng với nhiều anh em chưa quen đi bộ nên khá khó khăn, có anh chân rướm máu, nhưng vẫn bám theo bước quân hành.Họ đã đi không chỉ bằng chân mà bằng cả ý chí nghị lực nữa.Nhất là với các anh đã lớn tuổi, quen giảng dạy, ngồi nghiên cứu, thì đây quả thực là một thử thách gian nan. Hành quân đêm, mệt nhất là buồn
ngủ. Thanh niên đang tuổi ăn tuổi ngủ, thật khó làm quen với việc cứ phải cuốc
bộ thâu đêm. Buổi chiều và chập tối khi mới lên đường thì còn hăm hở, đủ kiểu chuyện tiếu lâm. Nhưng chuyện cứ thưa dần khi về khuya, những bước chân theo quán tính, đôi khi ngủ gật giẫm cả vào nhau. Điếu thuốc là châm lên, chuyền
tay nhau từ đầu tiểu đội đến cuối tiểu đội, nõ thuốc nhọn hoắt, và không kịp
quay trở lại với người đầu. Thuốc lá cũng chẳng ngăn được cơn buồn ngủ, cứ dừng
chân tạm nghỉ là lính ta lại lăn quay ra đường tranh thủ chợp mắt. Cái khổ nữa
là khát nước, ngày hè, vận động nhiều nên cái khát đến rất nhanh. Ở HN đi một
bước là có hàng quán, khát nước, chỉ cần tạt vào hàng chè chén là xong. Còn khi
hành quân đêm, lấy đâu ra hàng với quán? Lính ta đành dùng mũ cối vục nước
mương giải khát. Có lần lính ta thỏa mãn được cơn khát, thì anh trung đội trưởng
đến soi đèn pin xuống con mương ven đường cho lính ta thấy những cái nổi lềnh bềnh
trên mương! Đó chắc là sản phẩm của bác nông dân đi thăm đồng buổi chiều! Chả
sao cả, chả ai bị đau bụng, đi ngoài vì uống nước bẩn cả. Giải quyết cái khát quan trọng hơn!
Lầm lũi đi cả đêm như vậy, đến khoảng 3-4 giờ sáng thì đến được nơi tạm
dừng chân ở một ngôi làng ven đường. Lính ta vào nhà dân trong đêm, không biết
mặt chủ nhà, cứ vậy lăn ra ngủ. 7-8 giờ sáng dậy, tắm giặt rồi lo nấu cơm ăn.
Dân quê mình nghèo lắm, vào làng chả thấy trai tráng đâu cả, toàn đàn bà, con
nít. Các nhà bọn mình vào trú chân đều thấy họ chẳng có gì gọi là tài sản cả:
không tủ, không bàn, chả xe cộ, quần áo thì để trong cái thúng, gầm giường dăm
củ khoai củ sắn, nhà nào khá thì có cái giường, còn không chỉ là cái chõng tre.
Bọn mình thường san bớt gạo lại cho nhà mình trú quân. Cứ vậy sau 4- 5 đêm bọn
mình cũng vào đến Hà Trung, nơi huấn luyện tân binh của sư 338.
Tiểu đội trưởng của mình là anh Lợi, cũng là lính sinh
viên, anh ấy học trường Đại học Ngoại ngữ, nhập ngũ trước mình 4-5 tháng gì đó, sau
khóa huấn luyện tân binh được giữ lại làm cán bộ khung. Cùng gốc sinh viên nên
cũng có nhiều điểm dễ hiểu và thông cảm cho nhau.
Mục tiêu của khóa huấn luyện tân binh 3 tháng là rèn cho lính có kĩ năng chiến đấu, tồn tại trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh. Lúc này chiến trường ở Thành cổ Quảng Trị đang diễn ra giao tranh rất ác liệt. Dự là sau khóa huấn luyện, bọn mình sẽ được bổ xung quân vào đó.
Mục tiêu của khóa huấn luyện tân binh 3 tháng là rèn cho lính có kĩ năng chiến đấu, tồn tại trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh. Lúc này chiến trường ở Thành cổ Quảng Trị đang diễn ra giao tranh rất ác liệt. Dự là sau khóa huấn luyện, bọn mình sẽ được bổ xung quân vào đó.
Ngoài các bài cơ bản: đội ngũ, bắn súng, đâm lê, ném lựu
đạn, lăn lê bò toài, đào công sự, các bài học chính trị, chiến thuật tổ 3 người, tiểu đội, trung đội,…bọn
mình còn phải rèn thể lực bằng các bài hành quân đêm- gùi đá 30 kg. Vậy là phải
vào rừng tìm tre, đan rọ đựng đá rồi đi tìm đá. Tuần hai lần tập đeo đá, hành
quân đêm, tập truyền khẩu lệnh trong đội hình hành quân theo kiểu: “ăn không
khói, nói không tiếng”….
Sau vài tuần thì cũng dần quen với cuộc sống quân ngũ: từ lúc mở mắt đến tối đi ngủ: không một khoảng thời gian nào rỗi để mà nhớ nhà hay để mà tư tưởng. Cuộc sống vận động nhiều như vậy nó rèn luyện sức chịu đựng cho người lính, nhưng nó cũng đòi hỏi một chế độ dinh dưỡng cao. Điều này thì không bao giờ đủ với chế độ ăn đại táo. Lính đói, mệt, nên đến cuối tuần, khi cường độ giảm chút ta có cảm tưởng như vượt qua được ngọn núi và thấy biển cả trước mặt. Một trải nghiệm mà không ở hoàn cảnh đó không thể có được.
Sau vài tuần thì cũng dần quen với cuộc sống quân ngũ: từ lúc mở mắt đến tối đi ngủ: không một khoảng thời gian nào rỗi để mà nhớ nhà hay để mà tư tưởng. Cuộc sống vận động nhiều như vậy nó rèn luyện sức chịu đựng cho người lính, nhưng nó cũng đòi hỏi một chế độ dinh dưỡng cao. Điều này thì không bao giờ đủ với chế độ ăn đại táo. Lính đói, mệt, nên đến cuối tuần, khi cường độ giảm chút ta có cảm tưởng như vượt qua được ngọn núi và thấy biển cả trước mặt. Một trải nghiệm mà không ở hoàn cảnh đó không thể có được.
Cuộc sống những ngày đầu trong lính cứ thế trôi. Một kỉ niệm ở
Hà Trung, đó là lần đi lấy gạo ở ngoài Bỉm Sơn. Tranh thủ vào dân mua mít ăn chống
đói. Tháng 6, mít chưa chín, hỏi nhà nào họ cũng không bán, lí do mít chưa
chín. Hỏi mãi không được, cuối cùng lính ta chơi liều, chưa chín cũng mua. Mấy
tên mượn dao chủ nhà xử ngay tại chỗ. Mít chưa chín, ngoài cái khổ về nhựa mít
nhiều, (phải mất vài hôm mới xử lí xong vụ nhựa mít dính tay), ăn như ăn khoai
sống, chả có vị gì. Ngoài công dụng chống đói, mùi mít chỉ được biết đến vào
ngày hôm sau, nhưng tại toillette!!. Thời đó chưa có xí bệt, giật nước! Lũ mít này thật phản động!
Quãng gần 2 tháng huấn luyện bộ binh gì đó, thì bọn mình
được Quân chủng Hải quân vào lấy quân. Vậy là trả súng đạn lại cho F 338 (một em RPK- hỏa lực cấp tiểu đội), bọn
mình hành quân ngược ra Quảng Ninh.
Một kỉ niệm khó quên, đó là đêm nằm bên phà Cửa Ông (phà
Tài xá). Đêm đó lính ta hành quân đến bến phà thì đã khuya, hết giờ chở phà.
Quay lại thì không ổn, Chính trị viên đại đội thuê đò sang bên kia sông đề nghị
nhà phà ưu tiên chở lính. Nhưng bọn phà này nhất định không nghe, mặc dù vị
chính trị viên đã đủ cách thuyết phục, kể cả dọa dùng súng! Cuối cùng lính ta
đành phó mặc cho trời: làm một đêm ngủ ngay tại bến phà, chờ bom Mỹ. Cũng may,
đêm đó dù có máy bay Mỹ có quần thảo khu vực, nhưng bom đạn xuống đội hình hành quân thì không có. Còn lính ta ngủ vạ
vật bên lề đường cũng không bị xe của mỏ xơi mất chú nào!. Thật may. Lính ta vượt thêm được một thử thách trên đường hành quân.
Sáng hôm sau, sau khi qua phà, lính ta được sang Cẩm phả
huyện ngủ bù (các quan Hải quân tâm lí phết, bởi từ Cẩm Phả huyện về nơi đóng quân chỉ khoảng 8-9 km, nếu thúc lính ta đi ngon trong buổi sáng đó). Vậy là đến chiều quân ta mới hành quân về thôn
Thạch Hà, nơi huấn luyện của tiểu đoản 9- Trường Sỹ quan Hải quân.
Về đến Thạch Hà đã chiều. Đầu làng Thạch Hà có một sân
bóng khá đẹp. Khi bọn mình hành quân đến đây thì thấy trai làng đang đá bóng.
Trong khi chờ bố trí về các nhà dân, bọn mình đã tranh thủ nghênh chiến với
trai làng. Và trong cuộc chiến đó, một trai làng to khỏe đã va chạm trên sân với
mình (gọi vui là “mua giò”). Thật oái oăm, khi khoác ba lô vào nhà dân cho bọn
mình trú quân, thì đó chính là nhà của anh trai làng, tên là Cư, đã
va chạm trên sân với mình. Tuy vậy, chuyện trên sân cỏ để lại trên sân cỏ,
"Quân với dân vẫn như cá với thớt"! Hú vía.
Mai đen hàng ngồi bên trái, Hàng đứng: Ng. Viết Thành, Trần văn Huấn (cùng A7 B2 C15 D9 Trường SQHQ ), Trịnh Duy Luân, Lại Vĩnh Mùi. |
Cùng trú quân ở nhà anh chị Cư trong suốt 3 tháng huấn
luyện tân binh Hải quân còn có các anh: Phạm Viết Đồng, Phạm Hải Đăng, Phan văn Thập,
anh Loan, anh Mai đen.
Một thời kì huấn luyện mới trong Quân chủng mới bắt đầu.
BLGiang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét