Thời buổi này kiếm được một thực phẩm sạch để ăn đã khó. Thế nhưng, chẳng nhẽ không ăn? Vậy là vẫn phải nhắm mắt xơi bừa. Và khi có bệnh, thì người ta lại nhào vô đủ các loại thuốc. Ít người biết rằng: nhịn ăn cũng là một cách chữa bệnh.
Bài viết dưới đây, được sưu tầm trên mạng.
Nhịn ăn là không ăn một thứ gì cho đến lúc cơ thể vừa hết thức ăn dự trữ. Phân biệt các cách nhịn ăn:
Bài viết dưới đây, được sưu tầm trên mạng.
Nhịn ăn là không ăn một thứ gì cho đến lúc cơ thể vừa hết thức ăn dự trữ. Phân biệt các cách nhịn ăn:
Nhịn ăn tuyệt đối (tuyệt thực) là không ăn,
không uống, không đưa vào cơ thể bất kì dưới một thứ gì dưới hình thức nào.
Nhịn ăn hoàn toàn là không ăn gì, nhưng có uống
mà chỉ uống nươc trong thiên nhiên hoặc nước đun sôi rồi để nóng bằng thân
nhiệt (370C). Phương pháp này còn gọi là nhịn ăn đơn thuần, thường
dùng để chữa bệnh.
Nhịn ăn không hoàn toàn (giảm thực): ăn không
đủ no, ăn không đủ để tiêu hao năng lượng.
Nhịn ăn từng phần (tiết thực): có ăn, nhưng ăn
hạn chế, kiêng khem một số thức ăn hoặc chất dinh dưỡng nào đó như: kiêng đạm,
mỡ, đường, chua, mặn v.v...
Trong những điều kiện tự nhiên cũng khó mà phân
biệt giới hạn giữa nhịn ăn không hoàn toàn với nhịn ăn từng phần vì ăn không đủ
thường phối hợp với sự rối loạn thành phần dinh dưỡng. Do đó, nhịn ăn từng phần
thường chỉ thấy trong điều kiện thực nghiệm.
Nhịn ăn khác với đói ăn. Đói ăn là khi các thức
ăn dự trữ đã tiêu thụ hết rồi mà vẫn cứ phải nhịn ăn, bắt buộc cơ thể phải đẩy
mạnh quá trình tự phân nhờ các enzym nội bào. Lúc này các tế bào lành mạnh bị
phân giải để nuôi các tế bào trọng yếu hơn làm cho cơ thể suy kiệt dần, dẫn đến
đói ăn bệnh lí (giai đoạn tiêu thụ các mô lành). Tình trạng này thường xuất
hiện trong những trường hợp thiếu ăn lâu ngày hoặc thành phần thức ăn không đủ
các chất bổ dưỡng hoặc quá trình hấp thu thức ăn bị rối loạn dẫn đến những thay
đổi bệnh lí chính trong cơ thể hoặc bắt nguồn từ điều kiện xã hội (thiên tai,
dịch họa, v.v...)
Nhịn ăn là quá trình phân giải, tiêu hóa các tế
bào bệnh tật, các mô mỡ dư thừa, đem lại cho cơ thể sự điều hòa, tăng thêm khí
lực, đó là sức khoẻ, là nhịn ăn sinh lí, là hiện tượng phổ biến trong tự nhiên
như thời gian ngủ đông (đông niên) hoặc ngủ hè (hạ miên) của một loạt những
động vật có vú (chồn, nhím, chuột vàng v.v...) và các động vật lưỡng thể, những
loại bò sát, các loại cá, côn trùng, v.v... Còn nhịn ăn ở người thì có nhiều
mục đích.
Để tăng nghị lực (Pitago, nhà toán học thiên
văn học xuất chúng, thế kỉ thứ VI tCn đã thực hiện nhiều đợt nhịn ăn dài ngày.
Để trau dồi tư tưởng, nâng cao trí tuệ (Xôcrat,
nhà hiền triết nổi tiếng cổ Hi Lạp, thế kỉ V-IV tCn; Platon, học trò của
Xocrat, thế kỉ IV-III tCn... đã thực hiện đều đặn những đợt nhịn ăn ngắn ngày).
Để hành đạo (Thánh Moise, nhịn ăn 40 ngày, Chúa
Christ, 49 ngày; Đức Phật, khi là tu sĩ Dattha “Gautama Siddattha” 49 ngày;
Muni Shri Misrilji 132 ngày; sư cô Diệu Minh 100 ngày, v.v...).
Để đấu tranh (Mahatma Gandi, thủ lĩnh Ấn Độ
phản đối chế độ chính trị tàn khốc của thực dân Anh; tiến sĩ Hyde, nhà bác học
vật lí Mỹ, người chiến sĩ đấu tranh cho hoà bình nổi tiếng thế giới đã nhịn ăn
nhiều đợt dài ngày trứơc tòa Bạch Ốc. Ở Việt Nam, trong chiến tranh chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ, nhiều nhà hoạt động cách mạng trong nước cũng đã nhịn
ăn phản đối bọn xâm lược, v.v...)
Để thực nghiệm: những công trình thực nghiệm
trên súc vật của giáo sư Rogiê, giáo sư Giođuê, bác sĩ Phostơ, v.v... cho thấy
từ khi nhịn ăn đến lúc đói ăn của loài chim nhỏ được 2 ngày, chuột nhắt 2-4
ngày, chuột cống 6-9 ngày, chim bồ câu 11-14 ngày, gà 14-20 ngày, thỏ 15-30
ngày, chó 40-60 ngày, ngựa 80 ngày. Động vật giống cái nhịn ăn lâu hơn giống
đực, lớn tuổi lâu hơn non tuổi. Còn trên người thì nghiên cứu của giáo sư sinh
lí học Carlson A.J. Trường đại học Chicagocho biết một người khỏe mạnh, ăn uống
đầy đủ có thể nhịn ăn từ 50-75 ngày. Gần đây, người ta còn phát hiện có những
trường hợp kì lạ không ăn hàng năm, hàng tháng mà vẫn sống như: Dương Muội,
người ở Tứ Xuyên, Trung Quốc 9 năm không ăn (1948); Babya, người Scotland, 12
tháng 22 ngày (1967), v.v... đã được các ngành khoa học giải thích: họ sống
bằng ăn không khí (trong không khí có nitơ là thành phần chủ yếu của protein).
Trong dạ dày người có nnhững vi khuẩn có khả năng thu nhận lượng nitơ trong
không khí, biến nitơ thành muối axit nitric, cuối cùng thành protein.
Để chữa bệnh: Ngoài những mục đích trên, từ xa
xưa, nhịn ăn còn là một phương pháp chữa bệnh, y học cổ truyền phương Đông có
ghi trong tác phẩm “Hoàng đế nội kinh” coi việc giảm ăn uống là một trong những
nguyên tắc cơ bản của thuật dưỡng sinh. Thiên Tố Vấn nhấn mạnh: “Ăn uống tuỳ
tiện, dạ dày và ruột sẽ bị thương tổn”, v.v... Qua đó, nhịn ăn và giảm ăn, với
người xưa, không những là một bảo bối trong thuật dưỡng sinh mà còn là một
trong những phương pháp trị bệnh được nhiều danh y thừa kế ứng dụng, thể hiện
trong câu trả lời của danh y Kỳ Bá với Đại mục Kiều Liên nhờ chữa cho một đệ tử
bị bệnh nặng: “Nhịn ăn là tốt hơn hết” và trong lời nhắc nhở của danh y Hải
Thượng: “Dùng thuốc không bằng giảm ăn” (Phục dược bất như giảm khẩu). Trong
Bạch khoa y học toàn thư của Liên Xô (1958) cũng có nêu: Phương pháp nhịn ăn đã
được sử dụng với mục đích chữa bệnh ở Ấn Độ, Hi Lạp, Ai Cập từ lâu đời, v.v...
Ở Châu Âu thì đến thế kỉ XV chữa bệnh bằng nhịn ăn đã hoàn toàn bị lãng quên,
mãi đến đầu thế kỉ XIX, sau khi tìm ra cơ sở của sự trao đổi chất và năng lượng
trong cơ thể, người ta mới nghiên cứu phục hồi phương pháp nhịn ăn một cách
khoa học và đã được nhiều nhà y học áp dụng chữa được nhiều chứng bệnh, đồng
thời xuất hiện nhiều tài liệu, nhiều công trình nghiên cứu.
Ở Pháp, bác sĩ Guelpa (1903) nhận xét: nhịn ăn
làm đổi mới những mô. Làm khoẻ lại những cơ năng trong thân thể. Năm 1911, ông
xuất bản cuốn “Nhịn ăn là cách giải độc và kiến tạo cho người một thân thể khoẻ
mạnh”. Bác sĩ Jean Grumusan, năm 1912 đã tái bản lần thứ 12 quyển sách “Nhịn ăn
là phương pháp cảl lão hoàn đồng”. Giáo sư Pauchet V. Chuyên khoa giải phẫu,
sau nhiều năm nghiên cứu về nhịn ăn đã căn dặn môn đệ: “Bất cứ bệnh thuộc giải
phẫu nào cũng cần thiết thực hiện nhịn ăn trước khi mổ vài bữa thì ít bị nguy
hiểm, vết mổ lại mau lành, ít thấy làm mủ. Đến khi lành vết mổ rất mau lại
sức”. Bác sĩ Carton P. nói: “Nhờ phương pháp nhịn ăn đã giúp cho tôi thành công
nhiều công trình khoa học quý giá về chứng bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc không
còn hoành tự do trên cơ thể người”. Bác sĩ Hanish trong cuốn sách “Hô hấp và
sức khỏe” đã nhấn mạnh nhiều lần về kỹ thuật thanh lọc trong cơ thể dống khỏe,
sống lâu, sống thanh thản nhờ phương pháp nhịn ăn.
Ở Đức, ngòai những công trình thực nghiệm
của Smit, Phalơ, Rupnơ, Phôita, v.v... bác sĩ Siegfried Moller nghiên cứu khẳng
định: Nhịn ăn vừa là phương pháp trị liệu vừa là phương pháp làm người già yếu
được thêm sức trở lại trẻ trung. Bác sĩ Adolph Mayer viết trong quyển sách “Trị
bệnh trong phép nhịn ăn - trị bệnh của nhiệm màu” xác nhận rằng: “Nhịn ăn là
phương pháp thần hiệu nhất đễ chữa lành bất cứ chứng bệnh nào”. Bác sĩ Gustave
Riedlin đã thành công 2 chuyên đề: nhịn ăn tăng cường sinh lực và nhịn ăn là
phương pháp giải phẫu không cần dao.
Ở Mĩ, bác sĩ Shelton, Watter, Page, Dewey,
benhedie F, v.v... xác định rằng: “Không có một phương pháp trị liệu nào có thể
cải tạo sinh lực thần hiệu bằng phương pháp nhịn ăn”.
Ở Thụy Sĩ, bác sĩ Von Segesser Fr, sau nhiều
năm nghiên cứu về nhịn ăn, đã viết cuốn sách nổi tiếng về “Liệu pháp nhịn ăn”
(1914).
Ở Nhật Bản, bác sĩ Isizuce, Ohsawa G., bác sĩ
Morishita Keiichi, giáo sư Mishio Kusi, v.v... và nhiều trung tâm thực dưỡng
đều xác nhận nhịn ăn là một phương pháp đem lại điều hòa cơ thể, quân bình âm
dương hoàn chỉnh nhất và giáo sư Ohsawa G. Cũng đã thể nghiệm nhịn ăn 60 ngày
(8/1955).
Ở Việt Nam, một số người đã áp dụng phương pháp
nhịn ăn chữa một số bệnh đạt kết quả. Năm 1968, bác sĩ Cao Sĩ Tấn ở Sài Gòn đã
biện soạn quyển “Pháp vô úy thí” (phép về sinh tiết thực). Năm 1970, ở Huế, tác
giả Thái Khắc Lễ biên soạn quyển “Tuyệt thực đi về đâu”. Năm 1987, câu lạc bộ
thực dưỡng thành phố Hồ Chí Minh đã cùng Trung tâm đào tạo và nghiên cứu y dược
học dân tộc theo dõi điều trị 100 bệnh nhân với 25 loại bệnh, trong đó có những
bệnh nan y (xơ gan cổ trường, thận hư nhiễm mỡ, ung thư, v.v...) bằng phương
pháp thực trị, kết hợp với phương pháp nhịn ăn thu được kết quả đáng tin cậy và
năm 1988 đã xuất bản cuốn “Nhịn ăn - một phương pháp chữa bệnh”. Năm 1986, câu
lạc bộ Thăng Long - Hà Nội xuất bản cuốn “Ăn uống và sức khỏe” cũng có mục
“nhịn ăn để chữa bệnh”. Nhiều người áp dụng có kết quả, một bệnh nhân khỏi được
nhiều bệnh đã viết một cuốn sách dưới dạng nhật ký “Một phương pháp chữa bệnh
mầu nhiệm” lấy tên Lưu Nguyễn. Cuối năm 1994, Nhà xuất bản y học (Bộ y tế) xuất
bản tập sách “Phòng bệnh và chữa bệnh bằng thức ăn” (Lý pháp thực y) của Bác sĩ
Lê Minh cũng có một mục đề cập phương pháp nhịn ăn trong thực y.
Cho đến nay, chữa bệnh bằng phương pháp nhịn ăn
ngày càng được áp dụng rộng rãi. Hàng trăm chuyên gia, viện sĩ, giáo sư, bác sĩ
nhiều nước, quá quá trình nhiều năm nghiên cứu, ứng dụng, mỗi người nêu lên
những kinh nghiệm và kết quả thực tế của mình thu lượm trong từng vùng, từng
nước, từng loại bệnh, nhưng tất cả cùng nhận định:
“Nhịn ăn là một phương pháp tiêu biểu để chửa
bệnh, không phải vì thiếu thuốc, thiếu lương thực, thực phẩm mà phải chữa bệnh
bằng nhịn ăn.”
Nhịn ăn là một phương pháp phù hợp với mọi bệnh
tật, cần thiết cho cả loại mạn tính và cấp tính, không hề nguy hại đến sinh
mạng. Đúng như bác sĩ Lief S. Đã dày công nghiên cứu, viết trong tạp chí
“Health for aH”. Trong hàng ngàn trường hợp mà tôi chữa bệnh bằng
phươg pháp nhịn ăn trong 18 năm trời, tôi chưa hề gặp một trường hợp nào mà
người ta chết vì nhịn ăn”. Cũng như bác sĩ Chas E. Page tuyên bố: “Trong 40 năm
thực nghiệm chữa bệnh bằng phương pháp nhịn ăn, tôi chưa từng thấy một trường
hợp nào gây ra sự chết chóc” và bác sĩ Tilden nhận định: “Ta có thể nói một
cách chắc chắn rằng khi có một người nào đó chết trong thời gian nhịn thì cái
chết đó nhất định phải gây ra do căn bệnh người ấy đã mắc phải từ trước, mà
thời gian nhịn ăn cần thiết chưa đủ để kịp trị liệu trước khi thần chết cướp
đoạt sinh mạng”.
Nhịn ăn là một biện pháp giúp toàn bộ cơ thể
được nghĩ ngơi thực sự. Con người sở dĩ khỏe mạnh, làm việc được lâu dài là nhờ
tác dụng của sự nghĩ ngơi, nhất là khi cơ thể bị đau ốm thì nhịn ăn là cách
nghĩ ngơi tối ưu. Không có một loại bệnh tật nào mà sự nghĩ ngơi lại không đem
lại lợi ích. Sự nghĩ ngơi là một dịp tốt để tạo điều kiện cho các cơ quan kiến
tạo lại những bộ phận bị hư hỏng phục hồi sinh khí.
Nhịn ăn làm tiêu độc, tiêu số mỡ thừa, cũng như
các mụn nhọt, u bướu trên cơ thể bằng cách tự phân hóa để nuôi các mô cần thiết
cho sinh mạng. Do đó, trong quá trình nhịn ăn nhiều chứng viêm thường được chữa
khỏi trước và u bướu, ung nhọt sẽ bị tiêu tan dần.
Nhịn ăn thì thức ăn dự trữ trong tế bào được
huy động để nuôi cơ thể là chất dinh dưỡng tốt nhất đối với người bệnh, đặc
biệt trong các bệnh cấp trầm trọng. Những thức ăn này được ưu tiên vận chuyển
đến những cơ quan hệ trọng như não, tim, hệ thần kinh và cũng chỉ được sử dụng
đến khi các cơ quan dinh dưỡng không còn khả năng cung cấp (giai đoạn đòi ăn).
Trong thời gian nhịn ăn, nếu người bệnh vẫn hoạt động lại thêm lo nghĩ buồn rầu
hoặc xúc động mạnh cùng với sự thay đổi đột ngột của thời tiết thì thức ăn dự
trữ sẽ bị tiêu hao nhiều và mau hết hơn.
Những biến đổi hóa học trong cơ thể khi nhịn ăn:
* Máu: dung lượng máu giảm dần theo tỉ lệ giảm
thể trọng, còn chất lượng được nâng lên.
* Mật: trong những ngày đầu mới nhịn, mật
thường tiết nhiều hơn. Số lượng và tính chất của mật xuất tiết tùy thuộc vào
tình trạng độc tố, cặn bã và phản ứng của cơ thể. Nếu nhiều thì đôi khi làm
người bệnh nôn mửa ra rất hôi, nhưng sau đó sức khỏe được cải thiện.
* Sữa: nhịn ăn thì cạn sữa, với phụ nữ mới sinh
chỉ áp dụng trong trường hợp tối khẩn thiết.
* Dịch vị: trong thời gian nhịn ăn,dịch vị vẩn
xuất tiết nhưng với lượng rất ít và hơi chua.Những trường hợp đa vị toan thì
chứng đau dạ dày vẩn tiếp tục, đôi khi còn thấy đau hơn trước kéo dài vài ba
ngày,nhưng sau đó sẻ giảm dần và hết hẳn. Chữa chứng nhiếu axít trong dạ dày
bằng nhịn ăn hiệu nghiệm và mau hơn dùng thuốc. Còn dịch cùa tụy và ruột tiết
ra rất ít và có thể không có diếu tố.
* Đờm dãi: nhiều người trong thời gian nhịn ăn,
khạc nhổ ra rất nhiều đờm dãi nhão nhớt đặc sệt như mủ, màu vàng, xanh hoặc
xám, đồng thời các chứng viêm cuống phổi mạn suyễn, v.v... sẽ bớt dần. Những
trường hợp viêm ruột già, chỉ trong một thời gian các chất nhớt mủ cũng được
tẩy sạch và các chứng bạch đới, khí hư, v.v... đều ngưng lại. Các mùi hôi thối
trong tử cung hoặc ngoài cửa mình do bệnh tật gây nên sẽ không còn nữa.
* Mồ hôi: mùi thường hôi hám, có trường hợp
tiết ra rất nhiều.
* Nước tiểu: trong những ngày đầu nhịn ăn, nước
tiểu luôn luôn màu sẫm, mật độ cao, chứa nhiều axit, urê, phốt phát, sắc tố
gan, mùi khai và hăng. Các chất độc này là do khả năng bài tiết được tăng
cường: không phải vì nhịn ăn mà thêm chất độc trong người, nên chỉ sau ít ngày
là nước tiểu trong dần.
Những thay đổi chức năng trong cơ thể khi nhịn
ăn:
* Não, tủy và thần kinh: vẫn giữ nguyên chức
năng kiểm soát các hoạt động của cơ thể và không hề mất trọng lượng một khi vẫn
còn được nuôi dữơng bằng các thức ăn dự trữ lấy từ các mô kém quan trọng để bảo
toàn chúng. Mọi năng lực tinh thần đều được cải thiện trong thời gian nhịn ăn.
* Các giác quan: do tính năng tiêu độc, đào
thải cặn bã ra khỏi cơ thể, tăng cường sinh khí cho hệ thần kinh trong khi nhịn
ăn, nên các giác quan (xúc giác, thị giác, thính giác, khướu giác, vị giác) đã
suy yếu vì bệnh tật, vì tuổi tác, vì bị đầu độc bởi các thức ăn thuốc uống
không phù hợp đều được cải tạo, phục hồi.
* Phổi: Phổi có khả năng tự bảo vệ, nhất là khi
bị bệnh, nó tự chữa lành trong một thời gian ngắn hơn và hoàn hảo hơn các bộ
phận khác.
* Tim: những bệnh thuộc về tim trong thời gian
nhịn ăn thu được nhiều kết quả do: nhịn ăn giảm được sự kích thích thường xuyên
của tim, giúp tim được nghĩ ngơi, hàn gắn những cơ cấu hư hỏng và lọc máu trở
thành trong sạch, cung cấp cho tim những thức ăn tinh bổ hơn. Bác sĩ Carrington
đã điều trị về bệnh tim cho biết: “Nhịn ăn là phương thuốc thần hiệu nhất để chữa
bệnh tim yếu, là phương pháp trị liệu hợp lí về phương diện sinh lí”
* Gan: so với các cơ quan khác, trong nhịn ăn
gan mất nhiều trọng lượng do mất glycogène, mỡ và nước.
* Lách: trong thời gian nhịn ăn, lách vẫn bình
thường với hình thái chắc và nhỏ lại.
* Tụy: giảm sút của tụy là nước.
* Dạ dày: khi nhịn ăn, dạ dày được nghỉ ngơi,
các hạch và cơ được cải tạo sau quá trình bị lao lực do thói quen ăn uống quá
độ bị căng giãn và sa xuống, được co lại trờ về thể tích bình thường, các ung
sang tự tiêu, chỗ viêm được lành.
* Thận: thận không có sự thay đổi đáng kể so
với các bộ phận của cơ thể nói chung. Nhịn ăn còn giúp con người dù tự chủ để
kiểm soát, đồng thời chữa lành những tình trạng bất thường của sinh dục và sản
dục, chứ không phải là phương thức tuyệt dục.
* Răng: không có sự biến đổi gì về trọng lượng
hoặc về cơ cấu. Thậm chí răng lung lay thì nướu răng trở nên chắc lại.
* Xương: không những không hề bị tiêu hao mà
còn tiếp tục tăng trưởng.
* Bắp thịt: các bắp thịt của bộ xương có thể
mất 40% trọng lượng. Nhìn chung thức ăn dự trữ trong các bắp thịt được đem ra
dùng trước và dùng nhiều hơn các cơ trơn.
* Da: trở nên mịn màng, hồng nhuận. Những nốt
mẫn ngứa, các vết nhăn đều biến mất, nói lên sự tốt lành mà da tiếp thu được
trong thời gian cơ thể đượ nghỉ ngơi.
Tóm lại, trong khi nhịn ăn, sự biến đổi hóa học
cũng như sự thay đổi chức năng chỉ là sự phân phối lại cho thích hợp với nhu
cầu cấp thiết để bảo toàn khí lực cho các bộ phận trọng yêu của cơ thể. Dĩ
nhiên phải hao hụt một số chất liệu nhưng không phải là loại nào cũng mất một
lượng ngang nhau. Chẳng hạn, bắp thịt và máu mất nhiều khoáng chất như sodium,
nhưng một số lớn khoáng chất khác lại được tăng trữ ở não, ở gan, ở tụy. Chất
diêm sinh và chất lân giảm ở bắp thịt, nhưng chất vôi lại tăng lên ở đó. Phân
suất potassium tăng lên ở những phần mềm trong người, còn chất sắt không hề bị
bài tiết. Một chất càng cần cho cơ thể bao nhiêu lại càng chậm tiêu hao bấy
nhiêu.
Những triệu chứng trong khi nhịn ăn
* Nhịp tim: nói chung đập đều mạnh, tương quan
với hoạt động của cơ thể. Nếu có những hiện tượng đập nhanh hoặc chậm là một
quá trình điều chỉnh có lợi ích cho cơ thể ngưìơi bệnh, không phải là sự loạn
động, của tim do tình trạng suy nhược gây nên bởi nhịn ăn. Cũng có thể gặp
những trường hợp nhịp tim rất thấp ở những người bệnh trước đó thường dùng các
chất kích thích hoặc hưng phấn. Các chất này khi bị thiếu hẳn thì gây ra tình
trạng trì trệ các hoạt động của cơ thể.
* Mạch: tăng nhanh bất chợt, có khi đập tới
120nhịp/phút khi bắt đầu nhịn ăn rồi hạ dần. Nhưng cũng có lúc lại tụt xuống 50
nhịp. Giao động như vậy khoảng một vài ngày sẽ trở về bình thường 60-70 nhịp
cho đến khi ăn lại.
* Huyết áp: thông thường ỡ giớI hạn trung bình
hoặc thấp hơn chút ít. Với người huyết áp cao thì sẽ hạ dần và người huyết áp
thấp thì sẽ tăng lên ở chỉ số trung bình.
* Nhiệt độ: phần lớn những ngườI mắc bệnh mạn
tính nhịn ăn, thân nhiệt hầu như giữ ở mức trung bình, còn những người mắc bệnh
cấp tính thì thân nhiệt lại sụt xuống và ở những người thường ngày có thân
nhiệt dưới mức trung bình thì lại tăng lên, thể hiện bản năng điều hòa của con
người trong khi nhịn ăn thì nhiệt độ không bao giờ lên cao như lúc có ăn uống.
Điều chắc chắn nhiệt độ trở lại mức trung bình nếu tiếp tục nhịn ăn. Nhưng cũng
có trường hợp trong thời gian dài nhịn ăn, thân nhiệt vẫn giữ mức trung bình,
bổng nhiên nhiệt độ sụt xuống, nên lưu ý đề phòng trường hợp có thể đi từ giai
đoạn nhịn ăn chuyển qua giai đoạn đòi ăn do hết các chất dự trữ trong người.
Trong trường hợp này, cho ngừng nhịn ăn và sưởI ấm cho người bệnh bằng hơi nóng
hoặc bình nước nóng thì không hề có gì xảy ra. Ở những người ăn uống nhiều thì
lúc mới bắt đầu nhịn ăn, thân nhiệt thường tăng (sốt) do phản xạ đói giả tạo.
Hiện tượng này có thể kéo dài từ một đến nhiều ngày. Đây là một triệu chứng có
tính cách chữa bệnh cảI tạo sức khỏe con người.
Cảm giác lạnh: mặc dù thân nhiệt của người nhịn
ăn giữ mức trung bình hoặc có tăng lên (sốt nhẹ) trong thời gian nhịn ăn thì
vẫn có cảm giác lạnh, thể hiện tuần hoàn máu ở ngoài da giảm bớt (thiếu màu ở
ngoài da).
* Hơi thở và rêu lưỡI: cơ thể càng nhiều cặn
bã, độc tố thì rêu lưỡI cành nhiều và hơi thở càng nặng mùi. Cũng như những
biểu hiện: nước tiểu đục, vàng sẫm, có khi đỏ, mùi khai khú, đại tiện phân đen,
có khi lẫn máu, mùi thối khẳm. Tất cả đều bớt dần khi cơ thể được thanh lọc
sạch sẽ hơn và cũng chỉ trở thành sạch sẽ dịu mùi khi sự thèm ăn tự nhiên trở
lại.
* Ngủ ít: người nhịn ăn thường ngủ ít do căng
thẳng thần kinh, nhất là những người lần đầu nhịn ăn (cần ổn định tư tưởng) và
do tuần hoàn không được điều hòa nên bàn chân thường bị lạnh gây khó ngủ (khắc
phục bằng cách ủ ấm chân). Ngủ ít hoặc nhiều tùy theo nhu cầu cơ thể. Nhịn ăn
đem lại sự quân bình, tinh thần thoảI mái thì không nhất thiết phải ngủ nhiều,
đừng lo ngạI vì nhịn ăn cũng là phương pháp chữa bệnh mất ngủ.
* Thể trọng giảm: (sụt cân): nhiều yếu tố chi
phối sự sụt cân: những người mập nước, mập mỡ, thịt nhẻo, những người da cảm,
căng thẳng, hoạt động nhiều sụt cân nhanh hơn những người gầy, thịt rắn chắc,
những người thoải mái, thanh thản. Sự sụt cân tương quan với tình trạng các mô.
Những người bệnh trong lúc nhịn ăn mà gấy ít, gầy một cách khó khăn là những
người rất dễ mắc chứng ngạnh hóa các tổ chức trog cơ thể. Đó là dấu hiệu đặc
thù một sự già cỗI tai hại của các cơ quan không còn khả năng làm non trẻ lại
được nữa.
Những biến chứng trong khi nhịn ăn:
Nhức
đầu, hoa mắt (có khi rối loạn thị giác) chóng mặt, hồi hộp (có khi xỉu) buồn
nôn, oẹ mửa, trống trảI trong dạ dày, mẩn đỏ ngoài da, v.v... là những khó chụi
thường xuất hiện vào những ngày đầu nhịn ăn do thói quen của cơ thể đòi hỏi
thức ăn và do sự thiếu thốn đột ngột của các chất kích thích (trà, thuốc lá,
caphê, gia vị, v.v...) thường dùng gằng ngày, nhất là người nào ăn uống nhiều
thức ăn tinh chế, dùng hoạt chất nhiều thì càng bị dày vò. Nhưng, tất cả sẽ qua
và nếu phản ứng những ngày đầu càng mạnh, thì kết quả của sự nhịn ăn càng sớm.
Còn với người ăn uống thanh đạm thì hầu như không co phản ứng gì đáng kể.
Ngoài những nhận định nêu trên, với sinh thái,
môi trường và con người, bác sĩ Lê Minh và lương y Nguyễn Minh Khái trong Câu
lạc bộ thực dưỡng thành phố Hồ Chí Minh, qua những năm theo dõi nhiều người
bệnh, đồng thời cũng tự thể nghiệm nhiều đợt nhịn ăn ngắn ngày và dài ngày cho
thấy.
Dùng nhịn ăn cũng như dùng thức ăn hoặc thuốc
để trị bệnh đều cần tuân thủ nguyên lí y học phương Đông là: “chữa từng người
bệnh”. Tuy nhịn ăn chữa được nhiều bệnh, nhưng không phải là người nào cũng
dùng được. Ví dụ: người có thai, người quá suy kiệt, người trong giai đoạn đói
ăn, người sợ nhịn ăn không dùng.
Nhịn ăn để chữa bệnh, trong giai đoạn từ 5-7
ngày đầu, cơ thể phát hiện những bộ phận yếu kém hoặc những chứng bệnh nặng, nhẹ
mà ta đã mắc và lần lượt sẽ cảm nhận được diễn biến kết quả của từng chứng
bệnh. Bệnh nhẹ, bệnh cấp tính, bệnh ngoài phủ tạng (Đông y gọi là thực chứng,
biểu chứng) chuyển biến trước và bệnh nặng, bệnh mạn tính, bệnh trong phủ tạng
(Đông y gọi là hư chứng, lí chứng) chuyển biến sau. Như vậy, nhịn ăn không
những có tác dụng chữa bệnh (đem lại sự quân bình hoàn chỉnh) mà còn có khả
năng góp phần phát hiện những rối loạn biểu hiện bệnh lí.
Nhịn ăn để phòng bệnh, tăng cường sức khoẻ,
nâng cao tuổi thọ. Hàng tuần nhịn một vài bữa tối (đầu tuần và giữa tuần) hoặc
hàng tháng nhịn một vài ngày (một ngày đầu tháng và một ngày giữa tháng) hoặc
hàng năm nhịn một đợt 7 ngày là đủ. Ngày đầu để tiêu thức ăn bữa trước, còn lại
6 ngày dành cho tạng phủ. Trong những ngày này có phản ứng gì ở tạng phủ nào
thỉ sau khi ngừng nhịn ăn phải có liệu pháp bỗ dưỡng tạng đó.
Thông thường nhịn ăn đến ngày thứ 4, sự đói
thèm không còn nữa, người thấy thoảI mái nhẹ nhàng. Nhưng nếu thấy nước tiểu
hơi đặc lại, môi hơi khô, lưỡI hơi to, da và tròng mắt hơi vàng thì đó chỉ tạng
gan yếu ( lấy miếng chanh để đụng đầu lưỡI là nước miếng hết đặc, trạng thái
trởI lại bình thường)
Ngày thứ 5, đau vùng thắt lưng, nước tiểu
đỏ và ít, đó là tạng thận không bình thường (để một chút muốI đụng lưỡI là nước
tiểu nhiều lại và dần dần hết đỏ).
Ngày thứ 6, tim đập hơi nhiều và mạnh hơn,
nhưng không mệt. Đó là tạng tâm không khoẻ lắm (để vào lưỡI một vài hạt đường
cát là tim đập bình thường)
Ngày thứ 7, hơi thở gấp rút, nhưng vẫn khoẻ
(lấy miếng ớt cay chấm vào đầu lưỡI là hết)
Nếu có những phản ứng lần lượt biểu hiện như
trên thì liệu trình trị liệu sau khi nhịn ăn trước tiên là bổ gan, tiếp đó là
bổ thận, bổ tim và bổ phổi cho đến khi phủ tạng bình phục rồi thì cứ mỗi tuần
một lần uống hoặc ăn thức ăn có vị đắng, cay, mặn, chua, ngọt (ngũ vị) để duy
trì sự điều hoà bổ dưỡng cho ngũ tạng. Như vậy, sức khoẻ sẽ được tăng cường lâu
bền.
Quy trình thực hiện phương pháp nhịn ăn
Trước khi nhịn ăn: trước khi bước vào nhịn ăn thì
ngày đầu ăn cháo gạo lứt, ngày thứ hai giảm bớt một nữa lượng cháo, ngày thứ 3
uống nước cháo loãng hoặc uống nước gạo lứt rang. Dù ăn cháo loãng hoặc uống
nước gạo lứt rang cũng đều không ăn no. Với những người không có chứng bệnh về
tiêu hoá như: viêm loét dạ dày- ruột, còn đủ sức vận động thì trước khi nhịn ăn
có thể rửa tuột, không phải dùng thuốc mà thanh lọc bằng cách uống nước muốI
loãng, không nên rửa ruột bằng thuốc sổ trước, trong và cả lúc mới bắt đầu ăn
trở lại, sẻ làm suy yếu dạ dày- ruột.
Trong khi nhịn ăn: bình thường, lần đầu nhịn ăn
sẽ có những cảm giác mới lạ chưa từng thấy bao giờ, dẫn đến những sự lo lắng
không đâu, những biến động tinh thần và đôi khi cả sợ hãi nữa mà điều tối kị
trong việc nhịn ăn là sự sợ hãi chết đói. Đã sợ hãi thì tốt nhất là chấm dứt sự
nhịn ăn. Thái độ tin tưởng, thoảI mái là yếu tố hết sức quan trọng, quyết định
phần lớn sự thành công. Ngoài ra, cần được nghỉ ngơi yên tĩnh trong không khí
trong lành, đồng thời giữ cho người nhịn ăn được ấm áp để khỏI hao tổn một cách
vô ích thức ăn dự trữ trong cơ thể. Cảm lạnh là nguyên nhân của sự khó chịu
trong người, ngăn chặn sự bài tiết, gây ra buồn nôn, ói mửa, nhức mỏ, đau đớn,
v.v...
Cònđiều đáng lưu ý nữa là dùng nước. Nước uống
cũng như nước tắm phải ấm bằng thân nhiệt. Ai cũng nhận thấy là không ăn thì
cũng rất khát. Vậy nên theo bản năng mà uống mỗi khi cơ thể đòi hỏi, khát thì
uống, còn không thì thôi. Nước thừa trong người chẳng giúp gì bài tiết mà còn giảm
bớt sự bài tiết các chất cặn bã. Nhưng tắm rửa thì vẫn cần, tất nhiên không nên
ngâm mình lâu trong nước mà nên tắm nhanh hoặc lau bằng khăn nước ấm ở nơi kín
gió. Còn hoạt động, đi lại, v.v... cũng tuỳ theo khả năng và ý thích của từng
người, không nên ép buộc theo quy định chung.
Sau khi chấm dứt nhịn ăn: một dấu hiệu quan hệ
chủ yếu, không thể nào thiếu được là người nhịn ăn thấy đói bụng thực sự và
thèm ăn tự nhiên trở lại, không phải đói bụng theo phản xạ của mấy ngày đầu
nhịn ăn (gọi là đói ăn giả tạo). Tất cả những biểu hiện mạch, huyết áp, nhiệt
độ trở lại bình thường. Hơi thở thơm dịu, hết đắng miệng, lưỡI sạch (hiện tượng
này không cố định, có người luỡI sạch mà vẫn chưa thấy thèm ăn do cơ thể đã
được thanh lọc sạch sẽ, nhưng thức ăn dự trữ chưa vơi. Có người thèm ăn trở lại
mà lưỡI vẫn bẩn, vì thức ăn dự trữ đã hết, cơ thể chưa được thanh lọc hoàn toàn),
nước tiểu trong, phản ứng trên da và những phản ứng khác đều trở lại bình
thường.
Thời gian cần thiết để ăn phục hồi tỉ lệ với
thời gian của đợt nhịn ăn và tình trạng sức khoẻ của người nhịn ăn. Quy trình
ăn trong 7 ngày đầu như sau:
- Ngày thứ 1: cứ mỗi giờ uống 1 ly (100-200ml)
nước gạo lứt rang, tuỳ theo tuổi và sức
- Ngày thứ 2: cách 2 giờ một lần, mỗi lần uống
2 ly gạo lứt rang.
- Ngày thứ 3: cháo gạo lứt loãng nấu thịt nhừ
với ít muốI (không ăn no)
- Ngày thứ 4: ăn như ngày thứ 3
- Ngày thứ 5: cháo gạo lứt hầm với đậu đỏ thật
nhừ với một ít nước muốI, cháo hơi đặc (ăn không no)
- Ngày thứ 6: ăn như ngày thứ 5, nhưng cháo đặc
- Ngày thứ 7: ăn cơm gạo lứt nấu nhừ, hơi nhão,
có thể dùng thêm nước súp cà rốt, bí đỏ, củ cảI, v.v...
Từ ngày thứ 8 trở đi, tốt hơn hết là nên theo
phương pháp ăn uống hợp lý, lấy cơm gạo lứt, muốI vừng làm thức ăn chính và
thức ăn phụ là các loại rau, củ mang nhiều tính dương, ăn cần nhai kỹ. Tránh
những thức ăn tinh chế, pha hoá chất.
Trên đây là cách ăn chuyển tiếp của những đợt
nhịn ăn dài ngày, còn những đợt nhịn ăn ngắn ngày (từ 3-7 ngày) thì thời gian
ăn trở lại chỉ cần 1 ngày uống thuốc nước gạo rang, 1 ngày ăn cháo loãng và 1
ngày ăn cháo đặc.
Cách ăn trong thời gian chuyển tiếp tuỳ thuộc
vào thời tiết, khí hậu, thể chất và tình trạng sức khoẻ của từng người. Người
ốm yếu nên ăn thức ăn nhẹ trong thời gian lâu hơn người khoẻ mạnh. Mùa lạnh nên
ăn nhiều thức ăn dương, mùa nóng thêm thức ăn âm.
Người nhịn ăn khi ăn trở lại, thường có khuynh
hướng muốn ăn nhiều, một phần vì thây đói, vì thèm ăn, nhưng cũng vì muốn chóng
lên cân, một phần do những người thân thúc đẩy ăn cho mau lại sức. Và thường
thích ăn lại những món ăn tác hại mà họ có thói quan ham chuộng trước kia, lấy
cớ là người bệnh thèm thức gì thì thức đó phù hợp với tạng phủ của họ là điều
sai lầm, dẫn đến bệnh tật. Trong thời kỳ này nếu ăn uống cho thỏa mãn thì rất
mau tăng thể trọng, nhưng sự bộI thực sẽ dẫn đến nguy tổn hoặc sự khó chịu
trong người làm giảm hiệu quả của thời kỳ nhịn ăn.
Cuối cùng, có một điều rất quan trọng mà tất cả
những ai muốn áp dụng phương pháp nhịn ăn để phòng bệnh và chữa bệnh đều nên
ghi nhớ và người nào đã qua thời kì nhịn ăn chắc hẳn đã rõ: nhịn ăn cứ tưởng
đơn giản mà cũng phức tạp, nhưng khi chuyển sang thời kì ăn trở lại còn phức
tạo và gay go hơn nhiều. Kết quả mỹ mãn hay không kết quả, thậm chí nguy hại là
ở thời kì này, lí trí không thắng nổi sự ham khoái lạc của giác quan, chỉ vì
“tham thực mà cực thân”, đã dẫn đến tình trạng đáng tiếc.
Tóm lại, tùy từng người bệnh, loại bệnh có thể
phối hợp với cách nhịn ăn dài ngày hoặc ngắn ngày để tăng hiệu quả chữa bệnh.
Nếu chỉ biết chữa bệnh bằng thức ăn mà không biết chữa bệnh bằng nhịn ăn, tức
là mới biết ích lợi của cái “có” mà không để ý đến sự cần thiết của cái
“không”.
Ai ai cũng thấy sự cần thiết của việc ăn, nhưng
đã mấy ai thấy sự nhịn ăn đem lại lợi ích, nên cứ cho người bệnh ăn, càng gầy
ốm càng ép ăn nhiều. Nào có hay làm như vậy tức là làm cho cơ thể vốn suy nhược
càng thêm suy nhược và làm trầm trọng thêm sự mất quân bình đã sẵn có. Sức khỏe
con người bị suy giảm phần lớn không phải vì thiếu ăn mà vì tích trữ quá nhiều
chất độc trong người. Muốn đào thải chúng để tăng cường sức khỏe, phòng chống
bệnh tật thì không còn cách nào trọn vẹn bằng phương pháp nhịn ăn, một phương
pháp thật thiên nhiên nhằm giúp mọi sinh hoạt cơ thể trở lại quân bình thiên
nhiên vốn sẵn có.
Giáo sư Lê Minh
Sưu tầm trên mạng,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét